Lịch sử Somalia

Tiền sử

Tranh đá cổ thể hiện một con lạc đà.

Somalia từng là nơi có người sinh sống từ thời kỳ đồ đá cũ. Những bức tranh hang động có niên đại từ năm 9000 trước Công Nguyên đã được tìm thấy ở miền bắc Somalia. Nổi tiếng nhất trong số đó là phức hợp Laas Geel, có chứa một trong số những tác phẩm nghệ thuật tranh đá sớm nhất trên lục địa châu Phi. Những dòng chữ đã được tìm thấy bên dưới mỗi bức tranh đá, nhưng các nhà khảo cổ học vẫn chưa thể giải mã được hình thức chữ viết cổ này.[26] Trong thời kỳ đồ đá, văn hoá Doian và văn hoá Hargeisan đã phát triển mạnh ở đây với những ngành công nghiệp và nhà máy của họ.

Bằng chứng cổ nhất về các phong tục chôn cấtVùng sừng châu Phi có từ các nghĩa địa ở Somalia có niên đại từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Các đồ dùng đá từ địa điểm Jalelo ở phía bắc Somalia được cho là bằng chứng liên kết quan trọng nhất về tính phổ quát ở những thời đồ đá cũ giữa phương đông và phương tây.[27]

Thời kỳ cổ xưa & cổ đại

Bài chi tiết: Kiến trúc Somalia
Con đường tơ lụa kéo dài từ miền nam châu Âu qua Ả Rập, Somalia, Ai Cập, Ba Tư, Ấn ĐộJava tới Trung Quốc.

các cấu trúc kim tự tháp, lăng mộ, tàn tích các thành phốcác bức tường đá cổ như Tường Wargaade còn rải rác ở Somalia là bằng chứng về một nền văn minh cổ phát triển từng thịnh vượng ở bán đảo Somali.[28] Những khám phá từ những cuộc khai quật và nghiên cứu khảo cổ ở Somalia cho thấy nền văn minh đó từng có một hệ thống chữ viết cổ và tới nay vẫn chưa được giải mã,[29] và nơi này đã có một mối quan hệ thương mại phát triển với Ai Cập cổ đạiHy Lạp Mycenaean ít nhất từ thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên, hỗ trợ cho quan điểm rằng Somalia là Vương quốc Punt (Punt: thuyền đáy bằng) cổ đại.[30]

Người Puntite "mua bán không chỉ trầm hương, gỗ munthú nuôi có sừng do họ tự sản xuất, mà cả các loại hàng hoá từ các vùng xung quanh, gồm cả vàng, ngà voida thú."[31] Theo những bức tranh khắc tại đền Deir el-Bahri, Xứ Punt thời ấy nằm dưới sự cai trị của Vua Parahu và Nữ hoàng Ati.[32]

Người Somalia cổ đại đã thuần hoá lạc đà ở một thời điểm nào đó giữa thiên niên kỷ thứ bathiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên và từ đó nó đã mở rộng sang Ai Cập Cổ đại và Bắc Phi.[33] Trong thời kỷ cổ đại, các thành bang Mossylon, Opone, Malao, MundusTabae ở Somalia đã phát triển một mạng lưới thương mại lớn kết nối với các thương gia từ Phoenicia, Ai Cập Ptolemaic, Hy Lạp, Parthian Ba Tư, Saba, NabataeaĐế chế La Mã. Họ đã sử dụng những con tàu hàng hải cổ của Somalia được gọi là beden để chuyên chở hàng hoá.

Tàn tích của Qa’ableh.

Sau khi La Mã chinh phục Đế chế Nabataean và sự hiện diện của hải quân La Mã tại Aden để chống cướp biển, một thoả thuận song phương giữa các thương gia Ả RậpSomalia đã ngăn cản các con tàu của Ấn Độ giao thương tại các thành phố cảng tự do của bán đảo Ả Rập bởi những người La Mã ở gần đó.[34] Tuy nhiên, họ tiếp tục giao thương với các thành phố cảng ở bán đảo Somalia, nơi không bị bất kỳ một đe doạ nào từ La Mã hay từ các gián điệp.[35] Lý do ngăn cản các con tàu Ấn Độ vào các thành phố cảng giàu có của Ả Rập là để bảo vệ và che giấu những hoạt động thương mại mang tính khai thác của các lái buôn Somalia và Ả Rập vốn mang lại rất nhiều lợi lộc thuộc hệ thống thương mại Biển ĐỏBiển Địa Trung Hải cổ đại.[36]

Trong nhiều thế kỷ các lái buôn Ấn Độ đã mua với số lượng lớn quế từ CeylonViễn Đông tới Somalia và Ả Rập. Đây được cho là bí mật được giấu kỹ nhất của các lái buôn Ả Rập và Somalia trong việc giao thương với người La MãHy Lạp. Người La Mã và Hy Lạp tin rằng nguồn quế có từ bán đảo Somalia nhưng trên thực tế, loại hàng có giá trị rất cao này lại được đưa tới Somalia trên những con tàu Ấn Độ.[37] Thông qua các thương nhân Somalia và Ả Rập, quế từ Ấn Độ/Trung Quốc cũng được xuất khẩu với giá cao hơn nữa tới tận Bắc Phi, Cận Đôngchâu Âu, khiến quế trở thành mặt hàng mang lại rất nhiều lời lãi, đặc biệt cho các thương nhân Somalia, và qua tay họ những lượng lớn quế đã được chở qua các con đường thương mại trên biển và trên bộ.

Sự ra đời của Hồi giáo & Thời kỳ Trung Cổ

Tàn tích của Vương quốc Hồi giáo Adal tại Zeila, Somalia.

Lịch sử Đạo Hồi tại Vùng sừng châu Phi cũng cổ như chính tôn giáo đó. Những tín đồ Hồi giáo đầu tiên bị xua đuổi đã bỏ chạy tới thành phố cảng Axumite của Zeila ở Somalia hiện nay để tìm kiếm sự bảo hộ từ Quraysh ở triều đình Hoàng đế Axumite tại Ethiopia hiện nay. Một số tín đồ Hồi giáo đã được trao sự bảo hộ và được cho là đã định cư ở nhiều vùng của Vùng sừng châu Phi để truyền bá tôn giáo.

Thắng lợi của các tín đồ Hồi giáo trước Quraysh ở thế kỷ thứ VII đã có một tác động quan trọng với các thương gia và thuỷ thủ Somalia, bởi các đối tác thương mại Ả Rập khi ấy của họ đều đã theo Đạo Hồi, và những con đường thương mại chính ở Địa Trung HảiBiển Đỏ đã nằm dưới sự thống trị của các Vua Hồi giáo. Thông qua thương mại, Hồi giáo lan rộng trong dân cư Somalia tại các thành phố ven biển của Somalia. Sự bất ổn tại bán đảo Ả Rập đã khiến nhiều gia đình Ả Rập phải di cư tới các thành phố ven biển của Somalia, những người này sau đó lại góp phần vào sự gia tăng ảnh hưởng của Hồi giáo tại bán đảo Somalia.[[Tập tin:Fakr Ud Din Mosque.jpg|nhỏ|225px|trái|Đền thờ Hồi giáo Fakr ad-Din thế kỷ XIII Mogadishu trở thành trung tâm của Đạo Hồi tại bờ biển Đông Phi và các lái buôn Somalia đã thành lập một thuộc địa ở Mozambique để khai thác vàng từ các mỏ MonomopatanSofala. Ở phía bắc Somalia, Adal đang ở trong những giai đoạn đầu tiên của một cộng đồng thương mại nhỏ được thành lập bởi những lái buôn Vùng sừng châu Phi mới cải theo Đạo Hồi, theo các biên niên sử Somalia và Ả Rập, họ có đa số là người Somalia.

Thế kỷ từ năm 1150 tới năm 1250 ghi dấu bởi một sự chuyển đổi mang tính quyết định của vai trò Đạo Hồi trong lịch sử Somalia. Yaqut Al-Hamawi và sau này là ibn Said đã lưu ý rằng người Berber (người Somalia) là một quốc gia Hồi giáo thịnh vượng trong giai đoạn này. Vương quốc Hồi giáo Adal khi ấy đã là trung tâm của một đế chế thương mại trải dài từ Mũi Guardafui tới Hadiya. Người Adalite sau đó rơi vào ảnh hưởng của Vương quốc Ifat, và trở nên thịnh vượng dưới sự bảo hộ này.

Thủ đô của Ifat là Zeila, nằm ở phía bắc Somalia hiện nay, từ đây quân đội Ifat ra đi chinh phục Vương quốc Shoa năm 1270. Cuộc chinh phục này đã gây ra tình trạng đối đầu giành thế bá chủ giữa người Solomonid Công giáo và những người Hồi giáo Ifatite dẫn tới nhiều cuộc chiến tranh tàn phá, và cuối cùng chấm dứt với một thắng lợi của người Solomonic trước Vương quốc Ifat sau cái chết của vị vua Hồi giáo nổi tiếng Sa'ad ad-Din II tại Zeila bởi Dawit II. Gia đình Sa'ad ad-Din II sau đó được cho trú ngụ tại triều đình của Vua Yemen, nơi các con trai ông tái lập và dự định cuộc trả thù những người Solomonid.

Mô hình của một con tàu Mogadishan.

Trong thời kỳ Ajuuraan, các vương quốc hồi giáo và các nhà nước cộng hoà Merca, Mogadishu, Barawa, Hobyo và những cảng biển của họ phát triển mạnh và có mối quan hệ thương mại phát đạt với những con tàu đi và đến từ Ả Rập, Ấn Độ, Venetia,[38] Ba Tư, Ai Cập, Bồ Đào Nha và xa tới tận Trung Quốc. Vasco da Gama, người đã đi qua Mogadishu vào thế kỷ XV, ghi chú rằng đây là một thành phố lớn với những ngôi nhà cao bốn hay năm tầng và những cung điện lớn ở trung tâm cùng rất nhiều thánh đường Hồi giáo với các tháp hình trụ.[39]

Trong những năm 1500, Duarte Barbosa ghi chú rằng nhiều tàu từ Vương quốc Cambaya ở Ấn Độ hiện nay đã đi tới Mogadishu với các loại vải vóchương vị, để trao đổi lấy vàng, sáp ongngà voi. Barbosa cũng nhấn mạnh tới sự thừa mứa của thịt, lúa mì, lúa mạch, ngựa, và hoa quả tại các khu chợ ven biển, mang lại sự giàu có lớn cho các thương gia.[40] Mogadishu, trung tâm của một ngành công nghiệp dệt đang thịnh vượng được gọi là toob benadir (chuyên phục vụ cho các chợ tại Ai Cập và Syria[41]), cùng với Merca và Barawa cũng là một điểm trung chuyển cho những lái buôn Swahili từ MombasaMalindi và cho việc buôn bán vàng từ Kilwa.[42] Các lái buôn Do Thái từ Hormuz mang các loại vải Ấn Độ và hoa quả của họ tới bờ biển Somalia để đổi lấy ngũ cốc và gỗ.[43]

Quan hệ thương mại được thiết lập với Malacca ở thế kỷ XV[44] với các mặt hàng trao đổi chính là vải, long diên hươngđồ sứ.[45] Hươu cao cổ, ngựa vằn và trầm hương đã được xuất khẩu tới triều đình Nhà Minh ở Trung Quốc, khiến các thương nhân Somalia có vai trò hàng đầu trong mối quan hệ thương mại giữa châu Á và châu Phi[46] và khiến ngôn ngữ Somalia có ảnh hưởng tới ngôn ngữ Trung Quốc trong quá trình đó. Các thương nhân Hindu từ Surat và các lái buôn Đông Nam châu Phi từ Pate, tìm kiếm con đường vượt qua cả sự phong toả của người Bồ Đào Nha và sự can thiệp của người Oman, sử dụng các cảng Merca và Barawa của Somalia (không thuộc quyền kiểm soát của hai cường quốc đó) để tiến hành buôn bán một cách an toàn mà không bị can thiệp.[47]

Thời kỳ hiện đại và Cuộc tranh giành châu Phi

Thánh đường Hồi giáo thế kỷ XVII tại Hafun, Somalia.

Ở giai đoạn tiền hiện đại, các nhà nước kế tục của Adal và các Đế chế Ajuuraan bắt đầu phát triển ở Somalia. Chúng là Triều đại Gerad, Các triều đại BariTriều đại Gobroon. Họ tiếp tục truyền thống chăn nuôi gia súc và thương mại trên biển đã được thành lập từ các đế chế Somalia trước đó.

Quốc vương Hồi giáo Yusuf Mahamud Ibrahim, quốc vương thứ ba của Gia đình Gobroon, đã khởi đầu thời kỳ vàng son của Triều đại Gobroon. Quân đội của ông giành nhiều thắng lợi trong cuộc Thánh chiến Bardheere, tái lập sự ổn định trong vùng và khôi phục lại ngành thương mại ngà voi của Đông Phi. Ông cũng nhận được các quà tặng và có mối quan hệ thân tình với các vị vua cai trị của các vương quốc gần và xa ở xung quanh như Omani, WituYemeni.

Con trai của quốc vương Ibrahim Ahmed Yusuf kế vị ông và là một trong những nhân vật quan trọng nhất ở thế kỷ XIX tại Đông Phi, nhận được đồ triều cống từ các vị thống đốc Oman và tạo lập các liên minh với các dòng họ Hồi giáo quan trọng trên bờ biển Đông Phi. Ở phía bắc Somalia, Triều đại Gerad tiến hành thương mại với YemenBa Tư và cạnh tranh với các lái buôn từ Triều đại Bari. Người Gerad và các quốc vương Bari đã xây dựng các cung điện, lâu đàipháo đài rất ấn tượng và có quan hệ thân cận với nhiều đế chế khác nhau ở Cận Đông.

Binh sĩ Somalia trèo lên một tàu chiến Anh.

Hồi cuối thế kỷ XIX, sau hội nghị Berlin, các cường quốc phương Tây bắt đầu Cuộc tranh giành châu Phi, khiến lãnh đạo Dervish Muhammad Abdullah Hassan vận động sự ủng hộ từ khắp Vùng sừng châu Phi và bắt đầu một trong những cuộc kháng chiến chống thực dân lâu dài nhất từng có. Trong nhiều bài thơ và bài diễn thuyết của ông, Hassan đã nhấn mạnh rằng những người Anh vô đạo "đã phá huỷ tôn giáo của chúng ta và biến con cháu của chúng ta thành con cháu của chúng" và rằng những người Ethiopia theo Công giáo liên minh với người Anh đã khuất phục trước sự cướp bóc tự do chính trị và tôn giáo của quốc gia Somalia. Ông nhanh chóng nổi lên như "một nhà vô địch của tự do chính trị và tôn giáo của Somalia, bảo vệ nó chống lại mọi kẻ xâm lược Thiên chúa."

Hassan đã ra một sắc lệnh tôn giáo quy định rằng bất kỳ một người quốc gia Somalia nào không chấp nhận mục tiêu thống nhất Somalia và không chiến đấu dưới sự lãnh đạo của ông sẽ bị coi là kafir hay gaal. Ông nhanh chóng có được vũ khí từ Thổ Nhĩ Kỳ, Sudan, và các quốc gia Hồi giáo và/hay Ả Rập khác, và chỉ định các bộ trưởng và các cố vấn để điều hành các lĩnh vực khác nhau của Somalia. Ngoài ra, ông còn đưa ra lời kêu gọi thống nhất và độc lập cho Somalia, trong quá trình tổ chức các lực lượng của mình.

Phong trào Devish của Hassan có đặc điểm nhấn mạnh vào quân sự, và nhà nước Dervish được lấy theo mô hình của một tình anh em Salihiya. Nó có đặc trưng ở hệ thống cấp bậc cứng nhắc và tập trung hoá. Dù Hassan đe doạ nhấn chìm những tín đồ Công giáo xuống biển, ông đã tiến hành cuộc tấn công đầu tiên bằng cách tung ra một lực lượng quân sự với 1500 người Dervish được trang bị 20 súng hiện đại vào binh sĩ Anh đang đồn trú trong vùng.

Taleex là thủ đô của Nhà nước Dervish.

Ông đẩy lui bốn cuộc tấn công của người Anh và có những quan hệ với các cường quốc phe trục như OttomanĐức. Năm 1920, nhà nước Dervish sụp đổ sau những vụ tấn công ném bom của người Anh, và các lãnh thổ Dervish sau đó được chuyển thành một vùng bảo hộ.

Sự xuất hiện của chủ nghĩa Phát xít đầu thập niên 1920 đã báo hiệu một sự thay đổi trong chiến lược của Italia, khi các vương quốc hồi giáo phía đông bắc nhanh chóng bị buộc vào trong các biên giới của La Grande Somalia theo kế hoạch của nhà nước Phát xít Italia. Với sự xuất hiện của Thống đốc Cesare Maria De Vecchi ngày 15 tháng 12 năm 1923, mọi sự bắt đầu thay đổi ở phần Somaliland được gọi là Somaliland Italia. Italia có quyền tiếp cận những khu vực đó theo các hiệp ước bảo hộ tiếp nối nhau, nhưng không cai trị trực tiếp.

Chính phủ Phát xít trực tiếp cai quản lãnh thổ Benadir. Italia Phát xít, dưới sự lãnh đạo của Benito Mussolini, đã tấn công Abyssinia (Ethiopia) năm 1935, với mục tiêu thuộc địa hoá nó. Cuộc xâm lược bị Hội quốc liên lên án, nhưng ít có hành động được thực hiện để ngăn chặn nó hay để giải phóng Ethiopia bị chiếm đóng. Ngày 3 tháng 8 năm 1940, quân đội Italia, gồm cả các đơn vị thuộc địa Somalia, vượt từ Ethiopia tới xâm lược Somaliland Anh, và tới ngày 14 tháng 8, giành thắng lợi khi chiếm được Berbera từ tay người Anh.

Một lực lượng Anh, gồm cả các binh sĩ từ nhiều quốc gia châu Phi, đã tung ra một chiến dịch vào tháng 1 năm 1941 từ Kenya để giải phóng Somaliland của Anh và Ethiopia đang bị chiếm đóng cũng như chinh phục Somaliland của Italia. Tới tháng 2, hầu hết Somaliland Italia bị chiếm và vào tháng 3, Somaliland Anh được tái chiếm từ ngoài biển. Các lực lượng của Đế chế Anh hoạt động ở Somaliland gồm ba sư đoàn các binh sĩ Nam, Tây và Đông Phi. Họ được các lực lượng Somalia dưới sự lãnh đạo của Abdulahi Hassan với những người Somalia thuộc các bộ tộc Isaaq, Dhulbahante, và Warsangali trợ giúp. Sau Thế Chiến II, số lượng người định cư Italia bắt đầu giảm; con số này còn chưa tới 10,000 năm 1960.[48]

Nhà nước Somalia

Bài chi tiết: Đại Somalia

Sau Thế Chiến II, dù người Somalia giúp đỡ các cường quốc Đồng Minh trong cuộc chiến của họ chống lại các cường quốc phe Trục, Anh vẫn duy trì quyền kiểm soát với cả Somaliland AnhSomaliland Italia như những khu vực bảo hộ. Tháng 11 năm 1949, Liên hiệp quốc trao cho Italia quyền uỷ trị với Somaliland Italia, nhưng dưới sự kiểm soát chặt chẽ và theo điều kiện đầu tiên do Liên đoàn Thanh niên Somalia (SYL) và các tổ chức chính trị mới xuất hiện của Somalia, như Hizbia Digil Mirifle Somali (HDMS) (sau này trở thành Hizbia Dastur Mustaqbal Somali) và Liên đoàn quốc gia Somalia (SNL) khi ấy đang đấu tranh cho nền độc lập của Somalia, đề xuất, rằng Somalia sẽ có được độc lập trong vòng mười năm.[49][50] Somaliland Anh tiếp tục là một khu vực bảo hộ của Anh cho tới năm 1960.[51]

Để Italia giữ được vùng lãnh thổ theo uỷ trị của Liên hiệp quốc, theo các điều khoản của việc uỷ trị người Somalia có cơ hội được giáo dục chính trị và tự quản. Đây là những điều tiến bộ mà vùng Somaliland của Anh, bị sáp nhập vào nhà nước Somalia mới, không có. Dù trong thập niên 1950 các quan chức thuộc địa Anh đã có những cố gắng, thông qua nhiều nỗ lực phát triển, để bù đắp cho sự thiếu quan tâm trước đó, vùng bảo hộ vẫn ở trong tình trạng trì trệ. Sự chênh lệch giữa hai vùng lãnh thổ về phát triển kinh tế và chính trị đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng khi hai vùng được sáp nhập.[52]

Trong lúc ấy, năm 1948, dưới áp lực từ các đồng minh trong Thế Chiến II và trước những người dân Somalia đang bất mãn,[53] người Anh "trao trả" Haud (một vùng chăn thả quan trọng của Somalia trước kia bị cho là 'thuộc sự bảo hộ' theo các hiệp ước của Anh với Somalia năm 1884 và 1886) và Ogaden cho Ethiopia, dựa trên một hiệp ước họ đã ký năm 1897 theo đó người Anh nhượng lại lãnh thổ Somalia cho Hoàng đế Ethiopia Menelik để đổi lấy sự giúp đỡ của ông chống lại hành động cướp bóc của các bộ tộc Somalia.[54] Người Anh thêm vào điều khoản rằng những người du mục Somalia sẽ giữ lại quyền tự trị của họ, nhưng Ethiopia ngay lập tức tuyên bố chủ quyền với họ.[49] Điều này đã khiến một kế hoạch mua lại các vùng đất Somalia mà họ đã nhượng trước đó của người Anh năm 1956 không thể thành công. Anh cũng trao quyền hành chính của Quận Biên giới phía Bắc (NFD) nơi hầu hết toàn người Somalia sinh sống[55] cho những người Kenyan theo chủ nghĩa quốc gia dù có một cuộc trưng cầu dân ý không chính thức với đại đa số người dân mong muốn vùng này gia nhập vào nhà nước Cộng hoà Somalia mới được thành lập.[56]

Pathway in old Erigavo.The Dahabshiil in Hargeisa.The Hargeisa International Airport in Hargeisa.Somaliland oil blocks.

Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức ở nước Djibouti láng giềng (khi ấy được gọi là Somaliland Pháp) năm 1958, ngay trước khi Somalia trở thành độc lập năm 1960, để quyết định việc họ có tham gia vào Cộng hoà Somalia hay ở lại với Pháp. Kết quả cho thấy người dân ủng hộ tiếp tục liên minh với Pháp, chủ yếu bởi số phiếu đồng ý của nhóm sắc tộc Afar khá đông đảo và những người châu Âu định cư. Tuy nhiên, đa số những người bỏ phiếu phản đối là người Somalia những người mạnh mẽ ủng hộ việc gia nhập liên minh thống nhất với Somalia như đã từng được Mahmoud Harbi, Phó tổng thống Hội đồng Chính phủ đề xuất. Harbi thiệt mạng trong một vụ rơi máy bay hai năm sau đó. Cuối cùng Djibouti giành lại độc lập từ Pháp năm 1977 và Hassan Gouled Aptidon, một người Somalia lấy vợ Pháp từng kêu gọi người dân bỏ phiếu thuận trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1958, trở thành tổng thống đầu tiên của Djibouti (1977–1991).[57]

Somaliland Anh độc lập ngày 26 tháng 6 năm 1960, và Somaliland Italia trước kia cũng theo bước năm ngày sau đó.[58] Ngày 1 tháng 7 năm 1960, hai vùng lãnh thổ thống nhất để lập ra Cộng hoà Somali, bên trong các lãh thổ đã được Italia và Anh Quốc lập ra.[59][60][61] Một chính phủ được Abdullahi Issa thành lập và Aden Abdullah Osman Daar trở thành Tổng thống,[62][63][64]Abdirashid Ali ShermarkeThủ tướng, sau này ông trở thành Tổng thống (từ 1967–1969). Ngày 20 tháng 7 năm 1961 và sau một cuộc trưng cầu dân ý, người dân Somalia phê chuẩn một hiến pháp mới, bản hiến pháp này được soạn thảo lần đầu năm 1960.[65]

Tuy nhiên, sự đối đầu giữa các bộ tộc vẫn tồn tại dai dẳng.[60][66][67][68] Năm 1967, Muhammad Haji Ibrahim Egal trở thành Thủ tướng, một chức vụ do Shermarke chỉ định. Egal sau này sẽ trở thành Tổng thống vùng Somaliland tự trị ở phía tây bắc Somalia.

Cuối năm 1969, sau vụ ám sát Tổng thống Shermarke, một chính phủ quân sự lên nắm quyền lực trong một vụ đảo chính dưới sự lãnh đạo của Thiếu tướng Salaad Gabeyre Kediye, Tướng Siad Barre và Giám đốc cảnh sát Jama Korshel. Barre trở thành Tổng thống và Korshel làm phó tổng thống. Quân đội cách mạng đưa ra những chương trình công cộng trên diện rộng và đã thành công trong việc tiến hành các chương trình xoá mù chữ ở thành thị và nông thôn, giúp tăng đáng kể tỷ lệ biết chữ từ 5% lên 55% vào giữa thập niên 1980. Tuy nhiên, những cuộc tranh giành vẫn tiếp tục dưới thời cầm quyền của Barre. Ở một thời điểm ông đã ám sát một nhân vật quan trọng trong nội các của mình, Thiếu tướng Gabeyre, và hai quan chức khác.

Vào tháng 7 năm 1976 chính quyền độc tài quân sự thật sự ở Somalia bắt đầu với việc thành lập Đảng Xã hội Cách mạng Somali (Xisbiga Hantiwadaagga Kacaanka Soomaaliyeed, XHKS). Đảng này nắm quyền ở Somalia cho tới khi chính phủ quân sự sụp đổ trong thời gian tháng 12 năm 1990–tháng 1 năm 1991. Chính phủ này bị lật đổ sau một cuộc nổi dậy vũ trang của Mặt trận Cứu tế Dân chủ Somali (Jabhadda Diimuqraadiga Badbaadinta Soomaaliyeed, SSDF), Quốc hội Thống nhất Somali (USC), Phong trào Quốc gia Somali (SNM), và Phong trào Yêu nước Somali (SPM) cùng với những cuộc phản đối chính trị phi bạo lực của Mặt trận Dân chủ Somali (SDM), Liên minh Dân chủ Somali (SDA) và Nhóm Tuyên ngôn Somali (SMG).

Pathway in old Erigavo.The Dahabshiil in Hargeisa.The Hargeisa International Airport in Hargeisa.Somaliland oil blocks.

Năm 1977 và 1978, Somalia xâm lược nước Ethiopia láng giềng trong cuộc Chiến tranh Ogaden, trong đó Somalia có mục tiêu thống nhất các vùng đất Somali từng bị phân chia bởi các cường quốc thuộc địa trước kia, và giành quyền tự quyết cho sắc tộc Somali tại các lãnh thổ đó. Somalia đầu tiên đấu tranh với Kenya và Ethiopia bằng ngoại giao, nhưng đã không thành công. Somalia, vốn đã sẵn sàng cho cuộc chiến, lập ra Mặt trận Giải phóng Quốc gia Ogaden (ONLF), sau đó gọi là Mặt trận Giải phóng miền Tây Somali, WSLF) và cuối cùng tìm cách chiếm đóng Ogaden. Somalia hành động đơn phương mà không tham khảo cộng đồng quốc tế, và nói chung cộng đồng quốc tế phản đối việc vẽ lại các biên giới thời thuộc địa, trong khi Liên bang Xô viết và các quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warszawa từ chối giúp đỡ Somalia, và thay vào đó, hỗ trợ cho nước Ethiopia cộng sản. Tuy vậy, Liên Xô, thấy rằng mình đang hỗ trợ cho cả hai phía trong cuộc chiến, đã cố gắng tìm kiếm một thoả thuận ngừng bắn.

Trong tuần đầu tiên của cuộc xung đột các lực lượng vũ trang Somalia đã chiếm miền nam và miền trung Ogaden và trong hầu hết cuộc chiến, quân đội Somalia giành nhiều thắng lợi trước quân đội Ethiopia và đuổi họ xa tới tận Sidamo. Tới tháng 9 năm 1977, Somalia đã kiểm soát 90% Ogaden và chiếm các thành phố chiến lược như Jijiga và tạo áp lực mạnh mẽ với Dire Dawa, đe doạ tuyến đường sắt từ thành phố này tới Djibouti. Sau khi bao vây Harar, một cuộc can thiệp quân sự lớn không lường trước của Liên Xô gồm 20,000 quân Cuba và nhiều nghìn chuyên gia Liên Xô giúp đỡ cho Ethiopia. Quân đội Somalia buộc phải rút lui và sau đó Somalia phải quay sang tìm kiếm sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Dù chính quyền Carter đã thể hiện sự quan tâm tới việc giúp đỡ Somalia, sau này nó đã giảm bớt, như đối với các đồng minh của Hoa Kỳ tại Trung Đôngchâu Á.

Tới năm 1978, tinh thần của chính phủ Somalia không còn nữa. Nhiều người Somalia đã tan vỡ ảo tưởng với cuộc sống dưới chế độ độc tài quân sự và chế độ này càng suy yếu hơn nữa trong thập niên 1980 khi cuộc Chiến tranh Lạnh dần kết thúc và tầm quan trọng chiến lược của Somalia không còn nữa. Chính phủ ngày càng độc tài, và các phong trào phản kháng, được sự khuyến khích của Ethiopia, lan ra khắp nước, cuối cùng dẫn tới cuộc Nội chiến Somalia.

Trong năm 1990, tại thành phố thủ đô Mogadishu, người dân bị cấp tụ tập ở nơi công cộng với các nhóm lớn hơn ba hay bốn người. Tình trạng thiếu hụt nhiên liệu khiến những hàng dài ô tô phải xếp hàng tại các trạm xăng. Lạm phát khiến giá của pasta, (loại mì khô Italia thông thường, món ăn chính ở thời điểm đó), lên tới 5 dollar Mỹ mỗi kilôgam. Giá của khat, được nhập khẩu hàng ngày từ Kenya, cũng là 5 dollar Mỹ trên mỗi bó tiêu chuẩn. Đồng tiền giấy có giá trị thấp tới nỗi cần nhiều bó tiền để trả cho một bữa ăn thông thường trong nhà hàng. Tiền xu bị rắc ra khắp phố bởi chúng có giá trị quá thấp để sử dụng. Một thị trường chợ đen tồn tại ở trung tâm thành phố khi các ngân hàng thiếu tiền để trao đổi. Vào buổi đêm, thành phố Mogadishu hoàn toàn tối đen. Các máy phát điện cho thành phố đã bị chính phủ bán đi. Việc giám sát chặt chẽ mọi du khách nước ngoài được tiến hành. Các quy định kiểm soát đổi tiền ngặt nghèo được đưa ra để ngăn việc rò rỉ ngoại tệ ra bên ngoài và chỉ các quan chức ngân hàng được tiếp cận chúng, việc chụp ảnh nhiều địa điểm bị ngăn cấm. Vào ban ngày ở Mogadishu, sự xuất hiện của bất kỳ lực lượng quân sự chính phủ nào rất ít thấy. Tuy nhiên, những chiến dịch vào ban đêm được cho là của các cơ quan chính phủ đã dẫn tới tình trạng 'mất tích' của một số cá nhân khỏi nhà họ.

Nội chiến Somalia

Bài chi tiết: Nội chiến Somalia
Hormuud Telecom is one of many firms with headquarters in Mogadishu.The Federal Government of Somalia has its seat in Mogadishu, the nation's capital.The Mogadishu municipality headquarters.Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ ở MogadishuSân vận động Banadir đang được tu sửaMogadishan currency.Entrance of a coral stone house in Mogadishu.Almnara Tower, Mogadishu.

Năm 1991 chứng kiến những thay đổi lớn ở Somalia. Tổng thống Barre bị lật đổ bởi các lực lượng dòng họ ở miền nam và miền bắc được Ethiopia trang bị. Và sau một cuộc họp của Phong trào Quốc gia Somali cùng những người già cả của các bộ tộc, vùng thuộc địa cũ của Anh ở phía bắc đất nước tuyên bố độc lập với tên gọi Somaliland tháng 5 năm 1991; dù trên thực tế có độc lập và tương đối ổn định so với miền nam đang hỗn loạn, chưa có bất kỳ một chính phủ nước ngoài nào công nhận nhà nước này.[69][70]

Tháng 1 năm 1991, Tổng thống Ali Mahdi Muhammad được nhóm tuyên ngôn lựa chọn làm tổng thống lâm thời cho tới một cuộc hội nghị giữa tất cả các bên được sẽ tổ chức tại Djibouti vào tháng sau đó để lựa chọn ra một lãnh đạo quốc gia. Tuy nhiên, lãnh đạo quân sự của Quốc hội Thống nhất Somali Tướng Mohamed Farrah Aidid, lãnh đạo Mặt trận Quốc gia Somali Abdirahman Toor và lãnh đạo Phong trào Yêu nước Somali Col Jess từ chối công nhận Mahdi là tổng thống.

Điều này đã gây ra chia rẽ giữa SNM, USC và SPM và các nhóm vũ trang của Tuyên ngôn, Phong trào Dân chủ Somali (SDM) và Liên minh Quốc gia Somali (SNA) ở mặt khác và bên trong các lực lượng USC. Điều này dẫn tới những nỗ lực lật đổ Barre người vẫn tuyên bố là tổng thống hợp pháp của Somalia. Ông và những lực lượng vũ trang ủng hộ mình vẫn ở lại miền nam đất nước cho tới giữa năm 1992, càng khiến bạo lực leo thang, đặc biệt tại các vùng Gedo, Bay, Bakool, Lower Shabelle, Hạ Juba, và Trung Juba. Cuộc xung đột vũ trang bên trong USC đã tàn phá vùng Mogadishu.

Cuộc nội chiến đã tàn phá nền nông nghiệp và làm gián đoạn việc phân phối lương thực ở miền nam Somalia. Căn nguyên của hầu hết những cuộc xung đột là những bất đồng và sự cạnh tranh những nguồn tài nguyên giữa các dòng họ. James Bishop, đại sứ cuối cùng của Hoa Kỳ tại Somalia, đã giải thích rằng có sự "cạnh tranh về nguồn nước, đồng cỏ chăn thả, và... gia súc. Đó là một cuộc cạnh tranh trước kia thường được giải quyết bằng những mũi tên và kiếm... Bây giờ nó được thực hiện bằng những khẩu AK-47."[71] Kết quả là nạn đói (khoảng 300,000 người chết) sau đó đã khiến Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc phải cho phép tiến hành chiến dịch giữ gìn hoà bình hạn chế năm Chiến dịch Liên hiệp quốc tại Somalia I (UNOSOM I).[72] Việc sử dụng vũ lực của UNOSOM bị hạn chế ở mức phòng vệ và nhanh chóng bị các lực lượng tham chiến bỏ qua.

Phản ứng trước sự tiếp tục bạo lực và thảm hoạ nhân đạo, Hoa Kỳ đã tổ chức một liên minh quân sự với mục tiêu tạo lập một môi trường an toàn ở miền nam Somalia cho việc tiến hành các chiến dịch nhân đạo. Liên minh này, (Lực lượng Nhiệm vụ Thống nhất hay UNITAF) đã tiến vào Somalia tháng 12 năm 1992 trong Chiến dịch Vãn hồi Hy vọng và đã thành công trong việc tái lập trật tự và làm giảm bớt nạn đói. Tháng 5 năm 1993, hầu hết quân dội Hoa Kỳ đã rút đi và UNITAF được thay thế bởi Chiến dịch Liên hiệp quốc ở Somalia II (UNOSOM II).

Tuy nhiên, Mohamed Farrah Aidid coi UNOSOM II là một mối đe doạ với quyền lực của mình và vào tháng 6 năm 1993 đội quân du kích của ông đã tấn công binh sĩ Quân đội Pakistan, thuộc UNOSOM II, (xem Somalia (tháng 3 năm 1992 tới tháng 2 năm 1996)) ở Mogadishu gây ra 80 thương vong. Giao tranh leo thang cho tới khi 19 binh sĩ Mỹ và hơn 1,000 người Somalia thiệt mạng trong cuộc bố ráp ở Mogadishu tháng 10 năm 1993. Liên hiệp quốc ngừng Chiến dịch Lá chắn Thống nhất ngày 3 tháng 3 năm 1995, sau khi đã chịu khá nhiều tổn thất nhân mạng, và quyền lực của chính phủ vẫn chưa được tái lập. Tháng 8 năm 1996, Aidid bị giết ở Mogadishu.